BỘ TÀI CHÍNH
TỔNG CỤC THUẾ
--------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
----------------
|
Số: 3257/TCT-DNL
V/v kê khai
thuế GTGT.
|
Hà Nội, ngày 14 tháng 08
năm 2014
|
Kính gửi: Tổng công ty Cảng Hàng không Việt Nam.
Trả lời
công văn số 601/TCTCHKVN ngày 04/3/2014 của Tổng công ty Cảng hàng không Việt
Nam về việc kê khai thuế GTGT tập trung tại Tổng công ty đối với các công trình
xây dựng cơ bản. Về vấn đề này, sau khi xin ý kiến chỉ đạo của Bộ Tài chính,
Tổng cục Thuế có ý kiến như sau:
Tại Khoản
17 Điều 3 Luật Xây dựng số 16/2003/QH11 ngày 26/11/2003 quy định:
“17. Dự án
đầu tư xây dựng công trình là tập hợp các đề xuất có liên quan đến việc bỏ vốn
để xây dựng mới, mở rộng hoặc cải tạo những công trình xây dựng nhằm mục đích
phát triển, duy trì, nâng cao chất lượng công trình hoặc sản phẩm, dịch vụ
trong một thời hạn nhất định. Dự án đầu tư xây dựng công trình bao gồm phần
thuyết minh và phần thiết kế cơ sở.”
Tại điểm c
khoản 3 Điều 10 Thông tư số 28/2011/TT-BTC ngày 28/2/2011 hướng dẫn thi hành
một số điều của Luật Quản lý thuế, hướng dẫn thi hành Nghị định số
85/2007/NĐ-CP ngày 25/2/2007 và Nghi định số 106/2010/NĐ-CP ngày 28/10/2010 của
Chính phủ quy định:
“…
Trường hợp
người nộp thuế có dự án đầu tư tại địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương khác với tỉnh, thành phố nơi đóng trụ sở chính, đang trong giai đoạn đầu
tư chưa đi vào hoạt động, chưa đăng ký kinh doanh, chưa đăng ký thuế thì người
nộp thuế lập hồ sơ khai thuế riêng cho dự án đầu tư và nộp tại cơ quan thuế
quản lý trực tiếp nơi đóng trụ sở chính. Nếu số thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ
mua vào sử dụng cho dự án đầu tư từ 200 triệu đồng trở lên thì được hoàn thuế
giá trị gia tăng cho dự án đầu tư. Trường hợp người nộp thuế có quyết định
thành lập các Ban Quản lý dự án đóng tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương khác với tỉnh, thành phố nơi đóng trụ sở chính để thay mặt người nộp thuế
quản lý một hoặc nhiều dự án đầu tư tại nhiều địa phương, Ban Quản lý dự án có
con dấu theo quy định của pháp luật, lưu giữ sổ sách chứng từ theo quy định của
pháp luật về kế toán, có tài khoản gửi tại ngân hàng, đã đăng ký thuê và được
cấp mã số thuế phụ thuộc thì Ban quản lý dự án được lập hồ sơ khai thuế riêng
với cơ quan thuế địa phương nơi đăng ký thuế.”
Tại điểm c
Khoản 3 Điều 11 Thông tư số 156/2013/TT-BTC ngày 6/11/2013 của Bộ Tài chính
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế quy định:
“…
Trường hợp
người nộp thuế có dự án đầu tư tại địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương khác với tỉnh, thành phố nơi đóng trụ sở chính, đang trong giai đoạn đầu
tư chưa đi vào hoạt động, chưa đăng ký kinh doanh, chưa đăng ký thuế, thì người
nộp thuế lập hồ sơ khai thuế riêng cho dự án đầu tư và nộp tại cơ quan thuế
quản lý trực tiếp nơi đóng trụ sở chính. Nếu số thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ
mua vào sử dụng cho dự án đầu tư theo mức quy định của pháp luật về thuế GTGT
thì được hoàn thuế giá trị gia tăng cho dự án đầu tư.
Trường hợp
người nộp thuế có quyết định thành lập các Ban Quản lý dự án hoặc chi nhánh
đóng tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác với tỉnh, thành phố nơi
đóng trụ sở chính để thay mặt người nộp thuế trực tiếp quản lý một hoặc nhiều
dự án đầu tư tại nhiều địa phương; Ban Quản lý dự án, chi nhánh có con dấu theo
quy định của pháp luật, lưu giữ sổ sách chứng từ theo quy định của pháp luật về
kế toán, có tài khoản gửi tại ngân hàng, đã đăng ký thuế và được cấp mã số thuế
thì Ban Quản lý dự án, chi nhánh phải lập hồ sơ khai thuế riêng với cơ quan
thuế địa phương nơi đăng ký thuế. Khi dự án đầu tư để thành lập doanh nghiệp đã
hoàn thành và hoàn tất các thủ tục về đăng ký kinh doanh, đăng ký nộp thuế, cơ
sở kinh doanh là chủ dự án đầu tư phải tổng hợp số thuế giá trị gia tăng phát
sinh, số thuế giá trị gia tăng đã hoàn, số thuế giá trị gia tăng chưa được hoàn
của dự án để bàn giao cho doanh nghiệp mới thành lập để doanh nghiệp mới thực
hiện kê khai, nộp thuế và đề nghị hoàn thuế giá trị gia tăng theo quy định với
cơ quan thuế quản lý trực tiếp.”
Tại Khoản 3
Điều 18 Thông tư số 06/2012/TT-BTC ngày 11/1/2012 hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật Thuế giá trị gia tăng, hướng dẫn thi hành Nghị định số
123/2008/NĐ-CP ngày 08/12/2008 và Nghị định số 121/2011/NĐ-CP ngày 27/12/2011
của Chính phủ quy định:
“3. Cơ sở
kinh doanh đang hoạt động thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu
trừ có dự án đầu tư mới, đang trong giai đoạn đầu tư thì cơ sở kinh doanh phải
kê khai bù trừ số thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ mua vào sử dụng cho dự án đầu
tư mới cùng với việc kê khai thuế GTGT của hoạt động sản xuất kinh doanh đang
thực hiện.
Sau khi bù
trừ nếu có số thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ mua vào sử dụng cho đầu tư mà
chưa được khấu trừ hết từ 200 triệu đồng trở lên thì được hoàn thuế GTGT cho dự
án đầu tư. Trường hợp số thuế GTGT đầu vào của hoạt động sản xuất kinh doanh và
dự án đầu tư dưới 200 triệu đồng và 3 tháng chưa được khấu trừ hết thì cơ sở
kinh doanh được hoàn thuế theo hướng dẫn tại khoản 1 Điều này.
Trường hợp
cơ sở kinh doanh đang hoạt động thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp
khấu trừ có dự án đầu tư cơ sở sản xuất mới tại địa bàn tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương khác với tỉnh, thành phố nơi đóng trụ sở chính, đang trong
giai đoạn đầu tư chưa đi vào hoạt động, chưa đăng ký kinh doanh, chưa đăng ký
thuế, nếu có số thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ mua vào sử dụng cho đầu tư từ
200 triệu đồng trở lên thì được hoàn thuế GTGT cho dự án đầu tư. Cơ sở kinh
doanh phải kê khai, lập hồ sơ hoàn thuế riêng đối với trường hợp này. Trường
hợp có ban quản lý dự án thì ban quản lý dự án thực hiện đăng ký, kê khai lập
hồ sơ hoàn thuế riêng với cơ quan thuế địa phương nơi đăng ký thuế (trừ ban
quản lý dự án cùng địa bàn tỉnh, thành phố nơi đóng trụ sở chính do doanh
nghiệp trụ sở chính lập hồ sơ hoàn thuế GTGT). Khi dự án đầu tư thành lập doanh
nghiệp mới đã hoàn thành và hoàn tất các thủ tục về đăng ký kinh doanh, đăng ký
nộp thuế, cơ sở kinh doanh là chủ dự án đầu tư phải tổng hợp số thuế GTGT phát
sinh, số thuế GTGT đã hoàn, số thuế GTGT chưa được hoàn của dự án để bàn giao
cho doanh nghiệp mới thành lập để doanh nghiệp mới thực hiện kê khai, nộp thuế
và đề nghị hoàn thuế GTGT theo quy định với cơ quan thuế quản lý trực tiếp.”
Tại Điểm b
Khoản 3 Điều 18 Thông tư số 219/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013 hướng dẫn thi hành
một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng và Nghị định số 209/2013/NĐ-CP ngày
18/12/2013 quy định:
“b) Trường
hợp cơ sở kinh doanh đang hoạt động thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương
pháp khấu trừ có dự án đầu tư mới (trừ dự án đầu tư xây dựng nhà để bán) tại
địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương khác với tỉnh, thành phố nơi đóng
trụ sở chính, đang trong giai đoạn đầu tư chưa đi vào hoạt động, chưa đăng ký
kinh doanh, chưa đăng ký thuế thì cơ sở kinh doanh lập hồ sơ khai thuế riêng
cho dự án đầu tư đồng thời phải kết chuyển thuế GTGT đầu vào của dự án đầu tư
để bù trừ với việc kê khai thuế GTGT của hoạt động sản xuất kinh doanh đang
thực hiện. Số thuế GTGT được kết chuyển của dự án đầu tư tối đa bằng số thuế
GTGT phải nộp của hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ của cơ sở kinh doanh.
Sau khi bù
trừ nếu số thuế GTGT đầu vào của dự án đầu tư mới chưa được khấu trừ hết từ 300
triệu đồng trở lên thì được hoàn thuế GTGT cho dự án đầu tư.
Sau khi bù
trừ nếu số thuế GTGT đầu vào của dự án đầu tư mới chưa được khấu trừ hết nhỏ
hơn 300 triệu đồng thì kết chuyển vào số thuế GTGT đầu vào của dự án đầu tư của
kỳ kê khai tiếp theo.”
Theo quy
định tại Khoản 4 Điều 7 Thông tư số 219/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013 hướng dẫn
thi hành một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng và Nghị định số 209/2013/NĐ-CP
ngày 18/12/2013 quy định các trường hợp không phải kê khai, tính nộp thuế:
“Trường
hợp cơ sở kinh doanh tự sản xuất, xây dựng tài sản cố định (tài sản cố định tự
làm) để phục vụ sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT thì khi
hoàn thành, nghiệm thu, bàn giao, cơ sở kinh doanh không phải lập hóa đơn. Thuế
GTGT đầu vào hình thành nên tài sản cố định tự làm được kê khai, khấu trừ theo
quy định”.
Tại Khoản 7
Điều 5 Thông tư số 219/2013/TT-BTC quy định các trường hợp Cơ sở kinh doanh
không phải kê khai, nộp thuế như sau:
“b) Điều
chuyển tài sản giữa các đơn vị hạch toán phụ thuộc trong doanh nghiệp; điều
chuyển tài sản khi chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi loại hình doanh
nghiệp. Tài sản điều chuyển giữa các đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc
trong cơ sở kinh doanh; tài sản điều chuyển khi chia, tách, hợp nhất sáp nhập,
chuyển đổi loại hình doanh nghiệp thì cơ sở kinh doanh có tài sản điều chuyển
phải có lệnh điều chuyển tài sản, kèm theo bộ hồ sơ nguồn gốc tài sản và không
phải xuất hóa đơn”.
Căn cứ các
quy định trên, nhằm đảm bảo nguyên tắc đối với thuế GTGT phải chặt chẽ, không
để vừa thu vừa hoàn hoặc hoàn để thu, trường hợp Tổng công ty Cảng hàng không
Việt Nam thực hiện dự án đầu tư theo quy định của Luật xây dựng và theo phân cấp
của Hội đồng thành viên tại các Cảng hàng không sân bay khác địa bàn quản lý
thuế với Tổng công ty thì Tổng công ty thực hiện lập hồ sơ khai thuế riêng cho
dự án đầu tư và nộp tại cơ quan thuế quản lý trực tiếp nơi đóng trụ sở chính.
Đồng thời kết chuyển thuế GTGT đầu vào của dự án đầu tư để bù trừ với việc kê
khai thuế GTGT của hoạt động sản xuất kinh doanh đang thực hiện.
Tổng cục
Thuế thông báo để Tổng công ty Cảng Hàng không Việt Nam được biết và thực
hiện./.
Nơi nhận:
- Như
trên;
- Lãnh đạo Bộ (để báo cáo);
- Vụ PC, Vụ CST (BTC);
- Vụ PC, CS, KK&KTT (TCT);
- Lưu: VT, DNL (3b).
|
KT. TỔNG CỤC TRƯỞNG
PHÓ TỔNG CỤC TRƯỞNG
Cao Anh Tuấn
|